Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2011

MỘT NGÀY CỦA CHÀNG LÃNG TỬ - VIÊM TỊNH



Tặng Hùynh Ngọc Thương

Sớm mai

Đắp chăn chiều lạnh hững hờ
Nghe người trở lại còn ngờ chiêm bao
Ngày xưa từ biệt lời chào
Tiếng chân bước vội thuở nào chưa quên

Đứng bóng

Trong em giọt lệ âm thầm
Tay ôm thương nhớ tháng năm mõi mòn
Hương ngàn xanh lá xuân non
Ngày ngày hong nắng hồng còn bóng xưa

Xế chiều

Tuổi chữ lá nhuộm vàng thu
Tóc màu khói trắng mù mù sương xanh
Tiếng thầm hiu hắt cổ thành
Rêu phong gác nhỏ bên cành sứ xưa..
VIÊM TỊNH

NHẬT KÝ NGẮN CỦA THÀNH PHỐ

NƯỚC
  
                                      Mỗi mùa đông về, lại nhớ huyền sử Sơn Tinh Thủy Tinh, thấy 3 phần tư trái đất là nước bao quanh, con người chỉ loay xoay dốc nầy đồi kia, nhìn thấy đâu cũng là vũng nước mềm mại mà thật đáng sợ, cho nên tự huyễn hoặc để tìm được chút yên tâm mà tồn tại.
                                     Hóa ra con người thật sự là rất yếu đuối.



Thứ Năm, 29 tháng 9, 2011

Thơ PHAN LỆ DUNG

BỖNG NHIÊN
Bỗng nhiên,
như chiếc lá ,
ta rơi lạc mùa
chìm trong gió bấc

Bỗng nhiên,
ta như ngôi nhà thờ cũ
bị chúa trờì bỏ quên

Bỗng nhiên,
ta như đứa trẻ tuổi mười lăm,
chạy băng qua cánh đồng chiều trở gió
hát bài tình ca
vời vợi nhớ thương.

Rồi bỗng nhiên,
ta âm thầm
thả chiếc lá xuống dòng sông.

 Phan Lệ Dung

NHẬT KÝ NGẮN CỦA THÀNH PHỐ

NHỮNG NGÀY CUỐI THU

                          Mùa thu đã làm cho rất nhiều thi nhân mặc khách xao xuyến cõi lòng, rung động trái tim nhạy cảm, bên cạnh đó những đôi mắt, những nụ cười của giai nhân cũng góp phần vào với mùa thu cho ai đó say hơn độc ẩm bên đồi Thiên An.
                          Và như thế mùa thu đi rải lá vàng thu khắp chốn nhân gian, sáng nay đi qua cầu Trường Tiền chợt thấy mình lạ hoắc chính mình, bầu trời không tươi, mơn man một xa vắng cuối mùa, đi lên đường Lê Lợi, vào sân ga xe lửa Huế.
                         Muốn đi đến một nơi nào không biết tên miền để mình được làm một người khách lạ.
                         Thật khó.

VĂN VIẾT LỘC

 HÃY CHO ANH YÊU EM…

Hãy cho anh yêu em lần nữa
nỗi nhớ xa ôm ấp bến bờ gần
bông cải vàng, lũ bướm nhỏ phân vân
không nhìn được nắng cao hay nắng thấp
anh vẫn biết tình em trao không thật
nên anh tự dối mình…
- chuyện nhỏ… mà em!!!

dẫu cơn lốc thời gian đã xoáy quanh nửa đời người
nhưng có sá gì trái tim anh vẫn đợi
dẫu bụi thời gian đã phủ kín cuộc đời
nhưng có sá gì trái tim yêu còn đập
cơn lốc thời gian đâu xoáy ngược được tình anh.

Văn Viết Lộc

Thứ Tư, 28 tháng 9, 2011

NHẬT KÝ NGẮN CỦA THÀNH PHỐ


     TÌM VỀ BIỂN

                   Buổi sáng dòng người ken dày con đường, hối hả, bức bối vì những ngả tư có đèn giao thông. Dừng lại và trôi xuôi theo hướng đi.
                   Đã được gặp, đã nhìn thấy, đã thật sự cảm xúc khi cùng đến nơi, và đã như tan vào nhau, ly cà-phê đá và đá đã tan trong cà-phê.
                   Nửa giờ buổi sáng ở đường Điện Biên Phủ.
                   Con đường về Thuận An lộng gió, đến bên Tháp Chàm ở Diên Lộc nghe gió ru lời gió, nghe biển ầm ào lời biển
                   Gió và Biển đang chờ đợi một cơn bão.    

HẢO HẢO CHUA CAY - LÊ NGỌC THUẬN



  





Lộc lãng tử say - đùa ly giỡn chén
 Thảo Đạo Sư say - nạo vét tim gan
Đính tiên sinh say - trong mơ còn uống
Ngọc Công Tử say - ngậm ngải tìm trầm

Có những kẻ say thì như tin lá cải
Gà cắn chó - rồi chó cắn xe
Chẳng thấy đâu bờ eo xưa Đồng khánh
Chỉ nghe điệu chầu văn giữa dòng sông Hương

Chử nghĩa chừ cũng tham ô hối lộ
Văn nghệ chừ cũng có sát thủ ma cô
Học giả, học thật chừ nam mô bốn phía
Rượu linh tinh chừ bia linh tinh

Huế có đò – Sinh ra nhà Đò học
Đem quá khứ làm bức bình phong
Gã lận gian từng trang lịch sử
Còn chờ ăn như con kên kên

Buồn thay cho rượu Huế mơ màng
Chịu đựng những miệng lưỡi hở hang
Buồn thay cho kinh thành cổ kính
Gặp những cơn say dơ bẩn cung vàng

Rượu vốn là một thứ linh thiêng
Nên phải dùng tâm mà cạn chén
Say là cõi chân như thanh thoát
Sao lấy điêu ngoa xảo trá mà ngất ngây

Ta tắm gội trang nghiêm, áo quần tề chỉnh
Thắp hương tiên tổ rót rượu ngồi đây
Mỹ chánh buổi chiều cô quạnh bủa vây
Một mình ta say đông tây nam bắc.


(Từ blog LNT)

Thứ Ba, 27 tháng 9, 2011

NHẬT KÝ NGẮN CỦA THÀNH PHỐ

MƯA VÀ BÃO

                   Cơn bão số 4 vừa nhẹ nhàng đi qua trong đêm, ngọn nắng đầu ngày trong suốt pha lê. Một bản nhạc quen thuộc âm vang bên khoảng phố mình vừa đi qua. Giữa ngả tư một người bạn đạp xe đến, chào và ghé quán cà-phê đầu đường Hùng Vương.
                   Lâu quá không gặp, thấy được nhau những đổi thay của thời gian, nói đến vài người quen có những hoạt động văn chương, nghệ thuật, những tác phẩm đã xuất bản mới nhất, tán thán về những người bạn vừa bỏ cuộc chơi. Rồi từ giã nhau mà không hẹn gặp lại.
                   Vẫn vừa sống vừa nghĩ đến E, trong thành phố cổ kính này vốn đã đầy ấp kỉ niệm hóa thạch, đến lúc nào thì kỉ niệm của mình trầm tích dưới tận cùng trái tim đây.
                   A và E vẫn hiện sinh trong nhau từng phút giây, a luôn thấy như vậy đó.   

MẤT TÍCH - NGUYỄN MIÊN THẢO


Nếu ngày sau mình không còn gặp lại
Thì em ơi thanh thản để yêu người
Anh có đi khắp ba nghìn thế giới
Cũng không còn một cõi để rong chơi .

PHÁO NỞ HOA - viêm tịnh

Em theo tiếng pháo nở hoa
còn ai ở lại
đăng khoa
với tình
lời ca nào phải lời kinh
giữa đêm mộng mị
giật minh,
không ta.
                               Saigon tháng 5.08

Thứ Hai, 26 tháng 9, 2011

TỪ TRƯỜNG - VIÊM TỊNH
Dẫu khúc thánh ca tình yêu không là giông bão.   
Em vẫn là cơn biển động của lòng anh                 
Trong trái tim anh chỉ có em, một mình em     
Trên những con đường giữa phố thị hay trong cánh rừng nguyên sơ                                     
Đôi mắt em là ngôi sao dẩn đường cho anh tìm đến                                                           
Tình yêu dù tuyệt vọng đến ngần nào            
Anh chỉ nghe tiếng em cười vang vọng chốn em
Em trở thành vị thánh trước ngưỡng cửa thiên đàng                                                            
Nơi anh thở                                                   
Anh sống trong niềm hoan lạc                      
Cuộc đời anh 
                                            
Hãy trao cho anh tiếng thở dài                        
Của trái tim mà em đang thổn thức.
(buổi tối.18.3.2009)

NHẬT KÝ NGẮN CỦA THÀNH PHỐ

VIẾT CHO E

               Buổi sáng trên hành lang nhìn ra dòng sông đang đổi màu phù sa phủ kín một màn mưa trắng ảo, mông lung sương sớm xa thêm tầm mắt tìm kiếm một dáng người. Mưa đã vào mùa,  gió cũng đang vào mùa đẩy đưa thành phố chìm vào cơn mộng mị lãng mạn.
              Nối từ phương Nam giọng nói e qua điện thoại nghe gần như đã ở bên nhau, reo vui mà ẩn niềm nhớ nhung xa cách. Một tuần ở xứ người là những phút giây cố chìm vào những sự vụ cho qua đi thời gian, chờ mong hoàng hôn đến để tìm về rộn ràng những con chữ gõ vội tâm tình trao cho và nhận lấy. Tạm biệt a. Thành phố thân thiết đang mang nhịp đập của con tim đợi mong .
             Và a rất nhớ e .

Chủ Nhật, 25 tháng 9, 2011

MƯA TỪ HÔM QUA - THÁI NGOC SAN



Ảnh mưa rơi

Anh đi rồi còn tôi ở lại
Mưa từ hôm qua tới bây giờ
Chiếc quán đời ai thắp ngọn lửa
Chỗ ngồi anh lạnh giá ngày mai

Người ta vẫn nơi phồn hoa đô hội
Ai biết anh ai biết lòng tôi
Xe thời đại lăn hoài không tới
Ngục tù anh là ngục tù tôi

Mưa từ hôm qua thành bão rớt
Cờ không bay trên ngọn cổ đài
Tôi bước đi như người bỏ cuộc
Mơ thấy mình ngã ngựa trần ai

Người ta vãn xum xoe áo mão
Hội quần anh rồi hội quần thao
Hý trường vang vang lời đại cuộc
Tôi tìm anh biết ở chỗ nào

Anh đi rồi quán đời lạnh lẽo
Mưa bay ngoài hàng cửa song hàn
Tôi tìm lại bến đời khô héo
Những tàn bông nối những tàn bông.

THÁI NGỌC SAN
(Trích từ Thơ MIỀN NAM TRONG THỜI CHIẾN, trang 646. TỦ SÁCH DI SẢN VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM – THƯ ẤN QUÁN xuất bản 2006, USA)

Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2011

GỌI MỘT LỜI - VIÊM TỊNH


 Thủy triều trên dốc đá
Cõi lòng dưới vực sâu
Tiếng kèn đồng dục giã
Gọi nhau gọi gióng hàng

Áo chưa cài kín cúc
Bước chưa đi nhịp đều
Vo đất làm gối ngủ
Nghe giun dế vỗ về

Buổi mai làm chim tổ
Hoàng hôn bước chim di
Trái sáng như mặt trời
Bước đi mau bước đi

Tay sẵn sàng vũ khí
Bốn phương mặt trận buồn
Còn vui chi yến tiệc
Lời chia ly muộn phiền

Rượu thôi châm giọt đắng
Thuốc thôi đót đắng cay
Gian dối đời tranh chấp
Vỗ tay nghe trắng tay

Tình còn hơi thở cuối
Ân sủng tặng một đời
Lửa trong tim nóng hổi
Soi sáng bóng đêm người

Bao giờ thấy bình minh
Hồng chân mây bờ vực
Giấc ngủ thật bình yên
Mặt trời soi biển lặng.
VIÊM TỊNH
(Trích từ Thơ MIỀN NAM TRONG THỜI CHIẾN, trang 796. TỦ SÁCH DI SẢN VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM – THƯ ẤN QUÁN xuất bản 2006 USA)

Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2011

NHÀ THƠ CAO THOẠI CHÂU PHỎNG VẤN NHÀ THƠ VIÊM TỊNH




  Xin giới thiệu cuộc trò chuyện thú vị của hai nhà thơ Cao Thoại Châu và Viêm Tịnh


TÁC GIẢ VÀ BẠN ĐỌC : NHÀ THƠ VIÊM TỊNH
Nhà thơ Viêm Tịnh một thời làm thơ và có một số truyện ngắn đăng trước 1975, có tên trong ban biên tập tờ Văn Học, thơ đăng trên các tạp chí Trình Bày, Văn Học, Khởi Hành... vào giữa thập niên 1960 tại Sài Gòn. Một số thơ của VT có xu hướng tân hình thức, số khác trữ tình có một chút siêu thực và muốn làm mới. Giới văn nghệ Huế kháo nhau rằng Viêm Tịnh là… giai cấp hoàng gia (già mà hoang) có lẽ vì nhà thơ 64 tuổi vẫn chạy đua với thời gian để ... yêu và chạy xe máy ào ào không thua mấy cậu thanh niên, có khi cùng họ… đua xe máy không chừng! Anh còn đang làm gì nữa?
* CTC: Sinh năm 1945, vậy ra anh còn lâu mới tới ngưỡng chuẩn bị để chuẩn bị sống những năm đầu của tuổi chớm già. Nói thế là vì tôi vốn không thích “trẻ ranh” cũng như những “ông già” trong văn nghệ. Năm 45 ra đời, vậy năm nào thì ra đời thơ Viêm Tịnh, anh còn nhớ chút gì về bài đó, ấy là tôi tò mò muốn biết “hoàn cảnh sáng tác” của bài thơ đấy. Với tôi, bài thơ đầu thường định hình một phong cách thơ của một tác giả nào đó.
* VT: Nói lướt qua năm 1945, thì dấu ấn của một giai đoạn lịch sử mà một con người được sinh ra và sống được trong thời điểm đó cũng là một kỳ tích, vì theo như gia đình nói lại, tôi là một thành viên hơi được quan tâm hơn, vì hoàn cảnh chung của lịch sử, lúc đó cả nước thiếu cái ăn, nạn đói Ất Dậu, tất nhiên gia đình tôi cũng rơi vào vũng xoáy đó. Cuộc sống của tôi có được là một nỗ lực của gia đình. Có lẽ vì vậy tôi không phải chuẩn bị tích luỹ để đi vào tuổi chớm già. Cám ơn anh CTC quan tâm. Tôi nhớ, những năm đầu thập niên 1960, tôi sống ở làng Vĩ Dạ, quen với anh Trần Dzạ Lữ, anh là một người mê làm thơ, nhà tôi có một quán bán sách của cụ Bửu Kế thuê nhà của gia đình tôi để dọn hàng, anh TDLữ thường ghé để đọc sách “cọp” nên quen nhau. Rồi anh rủ tôi viết cho vui. Hồi đó chỉ làm báo văn nghệ viết tay, tên tờ báo là Mây Ngàn do anh TDLữ bao sân từ A tới Z, chúng tôi chỉ đưa bài, còn cho “đi” hay không là quyền của ông chủ bút Lữ. Tuy vậy tờ báo viết tay cũng quy tụ nhiều anh em mà về sau đầu quân vào Sài Gòn làm văn nghệ cũng được các tạp chí như Bách Khoa, Văn, Văn Học, Vấn Đề, Đất Nước, Trình Bày… thu nạp. Bài thơ được đăng trên tạp chí Văn Học đầu tiên của tôi trong năm 1965 đó đã khởi đầu cái sự văn chương vượt ra khỏi lũy tre làng của tôi. Mà “hoàn cảnh sáng tác” cũng hơi đặc biệt vì năm đó tôi đi “bụi” tận Pleiku, tạm trú với ông anh ở nhà thuê. Đêm đầu tiên lạ nhà không ngủ được, vì cái lạnh cao nguyên, nhà có cái máy quay đĩa 45 vòng, quấn chăn nghe nhạc cổ điển tự nhiên xúc động quá, tôi vơ tờ giấy và viết luôn bài thơ không âm luật. Mấy ngày sau quen phố núi, đi chơi, chép lại bài thơ và gửi cho báo Văn Học của Phan Kim Thịnh, tháng sau thấy báo đăng bài của mình, thế là cứ vậy mà “phát huy”. 

* CTC: Anh vẫn chưa trả lời: bài thơ đầu có định hình một phong cách thơ cho anh hay không. Tạm gác chuyện đó, được biết anh đi du lịch nhiều nơi, với anh thì có phải “chỗ quê hương đẹp hơn cả”? Tôi cũng yêu quê nhà và tôi có 50% là Huế. Tất cả - quê người, quê nhà - đều đẹp nhưng tôi không “cuồng sát” ý nghĩ về cái đẹp của những nơi không phải quê hương mình. Còn anh, sự thật là như thế nào?
*VT : Có lẽ tôi đi hơi nhiều nên khái niệm về cái đẹp riêng “quê người”, “quê nhà” không tách bạch. Tôi thấy nơi nào trên hành tinh này cũng đều đẹp cả, đẹp tuyệt vời. Tuy vậy, hôm nay tôi đã, đang ở Huế thì cũng là một sự chọn lựa không nhìn lại. Không một chút áy náy trong lòng. Tôi yêu Huế, chỉ có thế thôi. 

* CTC: Thú thật, nghe nhiều người Huế day dứt về cái đẹp Huế nhưng tôi không “lây” được nó. Thế còn “Viêm Tịnh”, xin lỗi, nghe có ấn tượng “Khổ Độc thiền sư” quá. Vậy “thiền sư” có hụp lặn trong tình trường và kết cục nên nghĩ thế nào về tình yêu ngoài tí thương tí nhớ tí tình dục ra? Có cái này, tôi tò mò là khi phải kết thúc một cuộc tình, anh xoay xở thế nào? Nó có khó hơn “xây dựng cơ bản” một cuộc tình?
* VT: Tôi nghe ra rằng anh cũng là một tay “giác đấu” trong tình trường, hèn chi có câu hỏi này. Tôi có cái tên viết này cũng từ Trần Dzạ Lữ, ông ấy rủ rê tôi viết cho ông, rồi ông ấy gợi ý nên lấy bút danh cho… khó ưa một chút, chắc cũng tại cái mặt tôi hơi khắc khổ một tý, giống mấy ông sư già, chết tên là cái chắc. Không vào cửa tình làm sao sống sót tận bây giờ. Mà tình là gì? (chữ của Đại sư phụ Kim Dung đó nghe), yêu tất nhiên phải từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới, rồi đọng lại trong trái tim nghiệt ngã này, và đắc đạo liền (ý riêng của tôi). Long đong trong cõi yêu nên tôi theo yêu pháp “để người phụ ta” cho nó… chính nghĩa, còn ta chui đầu vào tủ lạnh cho hạ hoả, và đóng dấu thánh khuôn mặt người tình vào trái tim xém bị nghẽn động mạch vành. Tôi ngại giống như ông Nguyễn Miên Thảo vào bệnh viện năm vừa rồi lắm. Kết thúc một cuộc tình đương nhiên là khó. Ông CTC này lạ thật, ông thấy dễ lắm à?!

* CTC: "Giác đấu", không dám đâu! Mà nghe nói sau ngày hoà bình, “Khổ Độc thiền sư” khoanh tròn mình lại, bế môn không tiếp xúc với ai trong mấy chục năm. Cơ duyên nào như thế và như thế mà anh sống được sao? Ít ra cũng không quên sông Hương núi Ngự và con gái Huế những thứ ấy chịu để cho anh yên chứ?
* VT: Quan niệm sống của tôi rất đơn giản, sau những năm tháng điêu linh mà mình trực tiếp tham gia, được người ta xé áo quan giùm, thì mình bước xuống sân khấu, nhường lại ánh đèn cho lớp diễn viên mới đóng vai. Đôi khi làm khán giả mà thấy vui. Mấy chục năm đó ẩn thế vì một vài “manh tâm” với cuộc mưu sinh, một vài “manh tâm” với những vọng tưởng (chưa có vi tính mà cũng sống ảo đời). Tất nhiên cũng có những tuyệt vọng tưởng như không chịu đựng được, nhưng nhờ có ông trời phù hộ, cấp bù lỗ cho một bà vợ biết yêu chồng con, thế là thời gian đâu có nghĩa gì. Lúc ấy bạn bè cũ thì đang lao xao chuyện hôm qua chuyện hôm nay, rối tung rối mù, mình xen vào có hợp thời trang không? Như trên đã nói, tôi yêu Huế (trong Huế biết bao điều tuyệt vời, kể một chuyện để anh thấy Huế, mà có dư không hè, vì anh cũng có 50% Huế.) Năm 1977, sau khi đi học cải tạo về, tôi được bạn bè kiếm cho một chân lao động phổ thông tại một công trường xây dựng cầu An Lỗ làm những việc bưng bê mang vác là xong. Một buổi sáng tháng 11, trời mưa lâm thâm, chúng tôi đang ở trên chiếc phà ghép bằng thùng phuy xăng cũ để rửa sạn cho thợ nề đổ chân cầu. Trong đám phụ nề có nhiều cô gái dễ thương (tôi thấy rứa mà chắc mấy ông bạn đồng nghiệp cũng thấy rứa), nhưng tôi vẫn chỉ thấy một cô luôn tay xới sạn mà thỉnh thoảng vẫn nhìn qua vành nón lá với đôi mắt đằm thắm và gặp tầm mắt tôi, nhờ vậy tôi lao động mà ít thấy mệt. Khi sắp hết giờ làm việc, cô gái tự nhiên đưa nắm tay qua tôi, anh biết gì không, một nắm tay đồng tiền cổ, cô ấy đã vừa làm vừa nhặt những trự tiền chìm dưới lòng sông, lẫn trong sạn, cất cho tôi. Bỗng nhiều tiếng la hét từ những chiếc phà đang neo phía trên phà của chúng tôi, một luồng nước sông ào ạt lũ về, hai chiếc phà bị chao lật úp, chiếc phà có tôi và cô gái mới quen chưa biết tên. Sau cuộc cứu hộ, kiểm lại công nhân thì thiếu cô gái mà tôi chưa biết tên. Ngày đó tôi ở lại cùng nhóm tìm kiếm suốt đêm, trưa hôm sau xác cô ấy tấp bên bờ tre cuối làng. Tôi bỏ việc.
* CTC: Nếu là tôi, thì tôi đã thắp một ngọn nến và tuyệt đối không để nó tắt. Bây giờ nói chuyện thơ . Thơ anh - những bài anh gửi cho tôi - đọc khá nhọc nhằn dù tôi làm nghề đọc thơ chuyên nghiệp. Nó trữ tình, lại nói theo bây giờ, là “tân hình thức” và theo tôi, thơ anh còn là “siêu thực” kiểu “Khổ Độc thiền sư” nữa. Nói vậy biết có đúng chăng? Anh có thuộc nhiều thơ Ngô Kha? Có nhiều bài “thơ tán gái” không?
* VT: Tôi có biết và có đọc thơ Ngô Kha, thời viết trên báo Trình Bầy. Tôi theo hệ Dân Tộc sau khi rời báo Văn Học.Tôi làm thơ theo cảm xúc của tâm hồn và cảm nhận cuộc sống theo cách nhìn hơi bảo thủ. Nếu anh thấy có mùi sư sãi chắc là do hồi nhỏ tôi học vỡ lòng ở ngôi trường làng cạnh một ngôi chùa nhỏ. Chùa hiện nay vẫn còn, nhưng trường thì không chút dấu tích. Chùa tên là Phước Huệ. Ở làng Vỹ Dạ.Tôi thích tán gái theo kiểu… rỉ tai, vừa được nhìn đôi má hồng vừa thơm thoảng hương tóc con gái, như vậy hiện thực và nhanh hơn là làm thơ.
* CTC: Chủ biên Tuyển tập thơ Huế với cả ngàn tác giả, anh thấy cái hay của thơ Tố Hữu là như thế nào và bây giờ anh có đoán được những người làm “thơ trẻ” cảm thơ người Huế này ra sao? Một tò mò nhỏ, làm tuyển tập này anh tìm tài liệu cách nào?
* VT: Tại Huế hiện nay có bút nhóm Sao Khuê, do nhà thơ Võ Quê và Nhà VH Thiếu Nhi Huế phụ trách, các em đang ở độ tuổi cấp 2, đó là lớp tuổi rất trẻ làm thơ và viết văn của tương lai. Còn có CLB Văn Thơ Trẻ của sinh viên, học sinh cấp 3 và những người viết trẻ riêng lẻ… Những sáng tác của các em không mang tính phong trào, tôi nghĩ thế hệ sinh ra trong những thập niên 80, 90 đang sống và học tập ở Huế có cách nhìn nhận thơ của thế hệ trước họ với đôi mắt rất độ lượng, và thông cảm. Không ngoại trừ thơ Tố Hữu. Mỗi thế hệ có một hoàn cảnh, có một cách nhập thế rất riêng. Tôi thấy họ hoà nhập với thiên nhiên của Huế rất dễ dàng, không mặc cảm. Họ đang sống và làm việc trong môi trường sống tương đối, và họ đang cảm thụ quá khứ và đang chuyển động cho ngày mai. Anh tò mò thì tôi phải giãi bày, người Huế nói riêng, dân tộc mình nói chung, vốn… mắn đẻ, cho nên dân số Việt Nam phát triển theo “cấp số nhân”, người Huế e rằng sinh đẻ nhiều hơn, chắc vì do dòng sông Hương trữ tình quá chăng. Dựa vào yếu tố đó, nên khi anh Cao Huy Khanh nói ra ý tưởng góp chung những người làm thơ để xem họ sống từ Huế và họ có làm thơ đến con số ngàn không... Thế là bắt tay làm, từ những người quen biết, từ những tư liệu sách đã phát hành, từ nguồn Internet… thôi thì đụng vô mô cũng gặp đồng hương cả, vậy là phát triển qua 2 cuốn, và đang làm tiếp cuốn 3 để có 1.000 Nhà Thơ Huế Đương Thời toàn tập. Qua cuộc nói chuyện này, nếu anh CTC có lên blog cho tôi gửi một lời cám ơn đến những tác giả có thơ trong tuyển tâp 1.000 Nhà Thơ Huế Đương Thời đã phát hành và sẽ xuất bản trong một ngày gần đây.
* CTC: Sao anh lại nhờ tôi cám ơn các tác giả ấy, lẽ ra các anh phải cám ơn họ từ trước khi in mới đúng chứ? Bắt giò tí vậy thôi, tôi sẽ làm như anh nhờ. Thế thì ở quê ngoại các con tôi, cứ ra đường là gặp nhà thơ? Hãy cho tôi bài nào của anh mà tác giả thương nó nhất. Và quan trọng là lời giải mã của anh. Câu chót : đàn bà làm khổ chúng ta… cho đến chết, cực thân ta quá nhỉ!
* VT: Không có đàn bà ta còn khổ thân hơn thế nữa. Tôi chỉ mong nhận vế trên của anh. Mà như là anh vẫn đang yêu một cách tích cực thì phải, những câu hỏi anh đặt ra đều liên quan đến chữ yêu. Tôi rất muốn luôn được sống trong trường tình, lãnh vực nầy không thể tách ra khỏi đời sống được. Bài thơ gửi dưới đây cũng nằm trong phạm trù yêu mà thôi. Mà thử tìm trong những ông làm thơ có ông nào tách mình ra khỏi đàn bà đâu. Nghiệt ngã là yêu mà vẫn cô đơn, tôi mãi chìm ngập trong nỗi niềm đó.


SÂN SI ĐỜI
1/Ngôi nhà ta sống như mộ địa
Nhện giăng sợi ngắn quấn sợi dài
Có em bên đời như không có
Mùa xuân về sao nắng hắt hiu

2/Ta sống với mưa như tình nhân
Âu yếm cùng nhau giọt lệ thầm
Nhịp tim đìu hiu lời yêu dấu
Tan giữa hư không một nụ cười

3/Ta đã già, Em vẫn thanh xuân
Trái mù u của tuổi tươi hồng
Rụng vài trái chín, xanh mầm mới
Ai rót vào ai khúc ngậm ngùi.

Thứ Tư, 21 tháng 9, 2011

TRANG VĂN NGÀY CŨ SỐ 2 - NHÀ THƠ VIÊM TỊNH



NHÀ THƠ VIÊM TỊNH
Nhà thơ Viêm Tịnh tên thật Võ Công Danh Ngọc,sinh ngày 01 - 11 - 1945 tại Vĩ Dạ ,Thành phố Huế.Từ giữa thập niên 1960 thơ ông xuất hiện trên các tạp chí văn học ở Sài Gòn.Ông là một trong những người đầu tiên tham gia Ban biên tập Tạp chí Văn Học,tờ báo chuyên về văn học có uy tín ở miền Nam.Sau năm 1975,vẫn sống ở Huế và một thời gian dài "im hơi lặng tiếng"nhưng vẫn sáng tác đều tay,cộng tác với các báo văn học ở hải ngoại.Ông là thành viên của Nhóm Bạn Huế,chủ biên tuyển tập 1000 Nhà Thơ Huế Đương Thời , là công trình tâm huyết của ông ( tập I,II đã xuất bản).Trong thời trai trẻ ông cũng đã cầm súng,và với tư cách của nhà thơ,ông từng kêu gọi:
Hãy quay nòng vũ khí lên thinh không
nã liên hồi đầu đạn
xâm hình vô vọng bằng những
dấu tròn xinh
giữa trời mây xám ngoẹt
Chúng ta sẽ thấy hằng sợi ánh sáng tươi cười
chói rọi ngời ngời tương lai mới
Xin giới thiệu một số bài thơ của ông trong thời kỳ đó.

TUỔI NGƯỜI
Một năm đời đang tới
hỡi anh em cùng so vai đứng lên
bước chân vui ra ngoài đầu ngõ
mở lời ca ngợi chúng ta
vừa nghe thoáng tình yêu hạ cánh
đậu mềm môi trái tim xuân
giữa vô cùng
nụ hôn lộc non nở cánh hoa
trong đất trời mở hội

Hãy quay nòng vũ khí lên thinh không
nã liên hồi đầu đạn
xâm hình vô vọng bằng những
dấu tròn xinh
giữa trời mây xám ngoẹt
chúng ta sẽ nhìn thấy
hằng sợi ánh sáng tươi cười
chói rọi ngời ngời tương lai mới

Hãy châm ngọn lửa đầu thuốc xanh
đốt cháy niềm tủi nhục
đang trưởng thành vây quanh chúng ta
mở đường mới ra ngoài đồng nội
ngắt cánh hoa lúa vàng
tặng người yêu gặp gỡ

Hãy cung tay mười ngón hồng non
đan thành niềm bất khuất
lưới võng phơi ánh sáng mặt trời
tuổi trẻ bừng bừng lời ngạo nghễ

Và ca hát ngút ngàn
phố lên những dấu đường mòn
trong cánh rưng kia nào ai còn mở lối

Chúng ta hãy bắt đầu
một ngày đang tới. 
Trình Bầy,Xuân Nhâm Tý 1972
 
KHÔNG PHẢI MỌI CHỐN
ĐỀU GIỐNG NHAU
 
Gửi Thế Vũ
-khi ở một nơi bình yên như Sài Gòn
trong những tiện nghi nguỵ trang bóng ngời
che dấu điều dối trá xảy ra
được hình dung bằng những tốt đẹp
phết màu nước sơn xanh
tưởng như mọi người đều tê liệt cảm giác

trong những ngọn gió thu úa vàng
chiếc đèn kéo quân đứng chết những hình nộm
trăng tháng tám

-cũng ở một nơi như Sài Gòn
không thể biết rõ ràng
tin tức một người bạn tên V
y mất tích giữa ban ngày trên đường Lý Thái Tổ
bởi mọi nguời vẫn ung dung mỗi sớm mai
và nhàn hạ những cuối ngày
dưới sự bảo trợ hết sức mong manh
nhưng mang nhiều khuôn mặt

sự thật đã biết như vậy
buổi rượu say không dịu được cơn đau
chấm dứt một xen ái tình lãng mạn
hân hoan cho mỗi người

-lúc ở một nơi nào đó như Sài Gòn
làm sao nhìn thấy điêu linh khốn khổ
vang vọng những tiếng kêu thương
và tiếng vỗ cánh của loài ác thú
con người được đeo những chiếc mặt nạ
quây quần quanh những thành phố
đuổi theo một hy vọng không tưởng
bình an

những đứa bé dẫn nhau đi khất thực
bên những lề đường lầm than
trong thị trấn rất ít công viên
có một vài vườn chơi trẻ con bỏ trống
ở đây mọi chuyển dịch
đều được tưởng tượng những tờ giấy bạc vào tay
sự cần thiết tối đa
không làm khác hơn được
khi buổi chiều trở về muộn màng
những đôi mắt chớp sáng
ôm chiếc gối hồng tiễn biệt
vỗ bàn ca ngợi sự bất công
trong chúng ta có người cúi đầu
có người ngẩng mặt

-tại ở nơi đó như Sài Gòn
nỗi khát khao được thể hiện dưới những ống đèn màu
một vài cặp tình nhân đi qua
không che dấu niềm hạnh phúc riêng tư
gửi cho mọi người những tiếng cười hoan lạc
nhưng sự thật họ là một ngẫu nhiên
phát xuất từ cơm áo và tình dục
giữa ngôn ngữ bất đồng
vẫn cảm thông bằng cử chỉ

vở kịch được trình diễn với những diễn viên đa tài
dưới hai bàn tay của người đạo diễn giỏi
phải không
chúng ta chỉ là những khán giả
ngồi sau hàng ghế cuối cùng
để nghe tiếng vỗ tay

cùng ở một nơi như Sài Gòn vậy đó 
Trình Bầy 1971

GỬI NHỮNG MÙA XUÂN KHÔNG ĐẾN 
Hỡi những em bé ở phố quận Chipou
đôi mắt của các em
đã làm hổ thẹn
bước chân tôi
trên những lề đường cỏ úa
xanh xao sợ hãi
nhìn những lớn lao được trang bị
đôi mắt của các em
tôi nhìn thấy ngày nào
đứng nép người sau tường nhà
trên trục lộ chuyển quân viễn chinh
như một khách lạ

Giữa ngút mắt đồng bằng
Cọng lúa hoang đứng bóng

Hỡi những em bé ở phố quận Chipou
làm sao tôi bắt gặp được một nụ cười
trên đôi môi khô thâm
của những đêm kinh hoàng
và ngày thảng thốt
bây giờ các em đã nhập vào cuộc chơi
rải rác bên những bóng cây
dưới những mái nhà đổ nát
vũ khí trên tay tuổi mười lăm mười sáu
mang nhãn hiệu của những quốc gia bình yên
tự dưng chúng ta đều hân hoan
và được thổi phồng như một kẻ tuẫn đạo
cho xứ sở chúng ta

Giữa muôn ngàn tiếng đạn
Tiếng kêu gào âm vang

Hỡi những em bé ở phố quận Chipou
nơi buồn tẻ nhất
chúng ta đang đối mặt
sự hận thù và lòng tự phụ
săn đuổi nhau
trong những loạt đạn nổ dòn
và nỗi chết lặng câm

Giữa bụi mù thạch khí
Cánh hoa hồng tả tơi

Hỡi những em bé ở quận Chipou
ôi quê hương áo vàng ngói đỏ
quê hương của khôn ngoan lãnh đạo
quê hương rực màu điện đền đá tượng
quê hương các em đang mỏi mắt đợi chờ vô vọng
sự thái hoà thủơ nào không tìm thấy

bây giờ mỗi thước đất
trên những cánh đồng bao la
gia đình các em đổ mồ hôi cấy lúa
chúng ta dùng để gieo mầm thù hằn
cày vỡ lòng đạo hạnh bằng cõi lòng tỉnh táo
bởiquê hương các em
không còn của riêng cho dân tộc các em
xấu xa và hoang tàn
đang đổ xuống bằng tiếng đạn bom
và bằng bước chân tôi
rầt hổ thẹn

Giữa những lời tung hô
Máu hoà cùng nước mắt

Hỡi những em bé ở phố quận Chipou
tôi biết các em
không bao giờ được nghe thấy
nỗi buồn bã của tôi
lòng chán nản của bạn bè tôi
đang làm lính viễn chinh bất đắt dĩ
nhân danh tình hũư nghị
tìm chút an nhiên tạm thời
cho đất nước tôi hằng lâu khói lửa
bởi trong đôi mắt các em
đã làm hổ thẹn
bước chân tôi.
Svay-Rieng,Campuchia 1971
Trình Bầy 1971

(Blog Nguyễn Miên Thảo)

Thứ Ba, 20 tháng 9, 2011

KHUNG CỬA Ô TÌNH ÁI - TỪ HOÀI TẤN

Ngày đã vui như thời xưa cũ
Mộng bên trời mưa nhỏ đầy vai
Em hãy cho tôi mùa thiếu nữ
Đời nghiêng tay hứng lệ tình hoài

Tiếng hát trong lòng tôi thoáng chợt
Những sương bay của buổi phai tàn
Qúa khứ còn ôm trong lồng ngực
Những buồn đau hôm sớm chưa tan

Nhớ em như một chiều mưa ấy
Bên sông trắng lạnh mấy hiên nhà
Đốt thuốc lòng sầu thương cháy đỏ
Vẳng lời cô quạnh một mình ta

Có em rồi cũng xa xôi nữa
Trăng tà đã nhạt cuối đêm chung
Mai hương xuân thắm còn vương giữa
Thương nhớ nghìn thu chốn mịt mùng

Ngày đã vui và em cách biệt
Sông về xuôi nhớ một khúc quanh
Tiếng cười như gió mòn non biếc
Mưa thét như lời ai trăm năm

Thứ Hai, 19 tháng 9, 2011

CHÂN ĐẤT - VIÊM TỊNH











Anh làm kẻ hồ đồ đi chân đất
Mòn bao nhiêu sỏi đá cũng bất cần
Em liếc xéo xem như tuồng hát bội
Cợt thế gian, anh nung chảy kiếm cùn

Kiếm cùn dầm xuống tận ao sâu
Hoen rỉ loang tròn khúc kinh cầu
Thì ra chỉ còn câu tình ái
Đọng lại đáy tim anh... não cả lòng.

Ngày đầu năm 2009.
VIÊM TỊNH

Chủ Nhật, 18 tháng 9, 2011

SÂN SI ĐỜI - VIÊM TỊNH










1.
Ngôi nhà ta sống như mộ địa
nhện giăng sợi ngắn quấn sợi dài
có em bên đời như không có
mùa xuân về sao nắng hắt hiu


2.
Ta sống với mưa như tình nhân
âu yếm cùng nhau giọt lệ thầm
nhịp tim đìu hiu lời yêu dấu
tan giữa hư không một nụ cười


3.
Ta đã già Em vẫn thanh xuân
trái mù u của tuổi tươi hồng
rụng vài trái chín, xanh mầm mới
ai rót vào ai khúc ngậm ngùi .

VIÊM TỊNH

Thứ Bảy, 17 tháng 9, 2011

GÓC MÒN -VIÊM TỊNH















Gửi H. Hải

Những vết cắt
hằn sâu trên thân non
dòng nhựa khô buồn màu trắng bạc
con đường mòn
lũ kiến tha hương
anh tha hương trong trái tim em
Mãng cỏ xanh nụ cười
Em bước ra từ trũng nham thạch
trầm tích lặng thinh
cháy bỏng
khát khao một cuộc tình
Ngón tay nuột nà từng sợi hương
qưyện vào đất trời
níu đời người vào nhịp nhớ
Mai kia không cuộc chờ
dấu chân in vết đường sõi cuội
mõi mòn
đôi mắt xanh.
Trong rừng cao su Tân Thành tháng 06.2008
 VIÊM TỊNH

Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2011

THỜI CỦA NGÀY MAI - VIÊM TỊNH

Gởi Thomas L. Friedman.

* Từ bên kia bờ Tây xa thẳm
người đàn ông cô đơn
thâm trầm trong những sự kiện
từng sợi tóc xâu chuỗi
nỗi hoang vu địa - chữ nghĩa
tiếng thở dài, "thế giới phẳng"
rung lên hồi chuông
kinh cầu cho y và
cộng đồng đang sống cùng y
* Hành tinh cong đã ôm trọn thời gian
lững lờ trôi nỗi trong dải thiên hà
tiếng vọng không biên giới
nổi lửa rót đồng đúc chuông thế kỷ
sóng ngầm cuồn cuộn
bùng vỡ và nhận chìm thế giới
* Tưởng như ở rất xa tầm
viên đạn vẫn vun vút
xuyên tâm
một góc hẹp bờ Đông
sóng thần cuốn chìm xuống đáy đại dương
mọi giá trị vỡ tung
mỗi mảnh kiến tạo khiêm tốn
nằm xếp dưới lớp bùn thời gian
thế giới đang từng ngày hẹp lại
* Cơn địa chấn rung nhẹ
đã khởi đầu một cuộc tồn sinh.

VIÊM TỊNH

Thứ Năm, 15 tháng 9, 2011

MƯA HẠT TUYÊT THÁNG TƯ - VIÊM TỊNH










Tháng tư
ngày qua theo từng bông tuyết
trắng xóa dấu chân em
mầm xanh của lá
chợt nhòa ánh mắt
tình nhân
bao dặm đường tìm nhau

Tháng tư
mùa xuân e ấp gọi tiếng thở dài
giữa luồng gió chướng
tê buốt môi hôn
hơi thở khói sương
quyện vào nỗi đau ngày đã xa
hòa trong cuộc chơi không mong đợi
em khuất bên trời

Tháng tư
chuyến xe buýt trống rổng
những con đường vội vàng
không in dấu chân kẻ lãng du
chìm khuất dưới thảm tuyết trắng
cành hồng đào
chỉ là cánh hoa giá băng

Tháng tư
gửi qua không gian hiện sinh
quấn quýt lên trong mỗi
tín hiệu
lời tình nghiệt ngă
cho nhau

Tháng tư
có được phút giây rộn ràng ?
Canada 04.07.